Lá cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm tướng de Castries. Ảnh tư liệu.
Chiến thắng lừng lấy năm châu, chấn động địa cầu
Chào mừng thắng lợi Điện Biên Phủ, Tố Hữu viết hai câu thơ sống mãi với thời gian:
Chín năm làm một Điên Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới; tạo ra bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh, kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954); buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Theo đánh giá của giới quân sự Pháp và Mỹ thì Điện Biên Phủ ở vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương mà còn đối với miền Đông Nam Á. Một trục giao thông nối liền các miền biên giới Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc. Nó như “cái bàn xoay” có thể xoay đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc; đồng thời là “cái chìa khóa” để bảo vệ Thượng Lào, từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất. Bởi vậy, thực dân Pháp đã điều động và bố trí lực lượng ở Điện Biên Phủ lúc cao nhất lên đến 16.200 quân cùng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh, tại 49 cứ điểm với 3 phân khu: Phân khu Bắc, Phân khu Nam và Phân khu Trung tâm.
Trước âm mưu và hành động mới của địch, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị đã tổ chức cuộc họp để nghe Tổng Quân ủy báo cáo và duyệt lần cuối kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, đồng thời quyết định mở Chiến dịch Điện Biên phủ. Theo đó, Bộ Chính trị đã thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, gồm: Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận; Thiếu tướng Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng; đồng chí Lê Chiêm - Chủ nhiệm Chính trị; đồng chí Đặng Kim Giang - Chủ nhiệm Cung cấp. Đánh giá tầm quan trọng của chiến dịch này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”.
Lực lượng của ta tham gia chiến dịch gồm: Đại đoàn 308 (3 trung đoàn 102, 88 và 36), Đại đoàn 312 (3 trung đoàn 141, 209 và 165), Đại đoàn 316 (2 trung đoàn 98, 174 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 176) và Trung đoàn 57 thuộc Đại đoàn 304. Hỏa lực có Đại đoàn Công pháo 351 gồm: Trung đoàn Pháo binh 45, Trung đoàn Sơn pháo 675, Trung đoàn Pháo cao xạ 367 và 2 đại đội súng máy cao xạ 12,7mm (24 khẩu). Tổng số quân chủ lực của ta khoảng 40.000 người, nếu tính cả tuyến hai thì quân số lên tới 55.000 người. Lực lượng phục vụ chiến dịch có: 628 ô tô vận tải, 21.000 xe đạp thồ, 261.500 dân công cùng nhiều tàu thuyền, lừa ngựa… Sau khi công tác chuẩn bị mọi mặt đã hoàn thành, thế trận chiến dịch được triển khai xong, các đơn vị sẵn sàng nổ súng.
Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường và anh dũng trong điều kiện “khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn…”, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 sinh lực địch, thu toàn bộ vũ khí, trang bị quân sự, bắn rơi nhiều máy bay; xóa sổ hoàn toàn tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương của Quân đội Pháp.
Sự đóng góp của quân và dân Tuyên Quang
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào thời điểm quyết định, Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy tập trung xây dựng kế hoạch tác chiến và chuẩn bị mọi công tác bảo đảm cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Ngày 20/9/1953, Hội nghị Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang ra nghị quyết đề cao tinh thần tích cực, chuẩn bị tốt tư tưởng tập trung cao độ phục vụ chiến dịch. Các huyện và các cơ quan xí nghiệp, kho tàng gần đường giao thông đều phải có phương án đề phòng địch tiến công, phục vụ giao thông vận tải...
Tỉnh đã kiện toàn, bổ sung quân số, vũ khí, trang bị, xây dựng được một tiêu đoàn gồm 4 đại đội và 1 trung đội trợ chiến; mở chiến dịch tuyên truyền rộng rãi về nghĩa vụ tòng quân trong toàn tỉnh. Năm 1953 tỉnh đã tuyển chọn và huấn luyện được 500 tân binh bổ sung cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Tỉnh thực hiện tốt nhiệm vụ tuyển tân binh bổ sung cho các đơn vị chủ lực làm nhiệm vụ đặc biệt, đủ về quân số, tiêu chuẩn, thành phần giai cấp, lai lịch gia đình. Tỷ lệ đảng viên nhập ngũ đạt 20%.
Hội đồng cung cấp tiền phương của tỉnh được thành lập với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng. Từng đoàn dân công hỏa tuyến của Tuyên Quang đã nhanh chóng được tập trung và biên chế thành tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn...lần lượt hành quân vận chuyển hậu cần lên chiến trường Tây Bắc.
Tính đến cuối năm 1953, tỉnh ta đã huy động được 1.021.738 ngày công phục vụ chiến trường. Vào thời điểm quyết định của chiến dịch Điện Biên Phủ (từ tháng 3 đến tháng 5 - 1954), tỉnh đã huy động 56.196 người phục vụ 1.854.360 ngày công cho chiến dịch. Số người phục vụ chiến dịch chiếm 43% dân số toàn tỉnh. Riêng thị xã Tuyên Quang lúc đó đã huy động, trưng tập 3 đợt xe đạp thồ hàng, mỗi đợt hàng trăm xe phục vụ chiến dịch từ 3 đến 6 tháng. Hàng nghìn lượt người đã tham gia dân công, làm đường giao thông, vận chuyển lương thực, vũ khí ra tiền tuyến. Các đoàn thể và nhân dân thị xã lập nhiều điểm đón tiếp, tặng quà cho bộ đội tại miếu Cô, Cây đa Nước chảy, Ghềnh Quýt. Nhiều gia đình bên đường đã nấu nước lá vối, lá đỏ ngọn đặt sẵn trước cửa nhà phục vụ bộ đội hành quân. Nhân dân thị xã đã nhận nuôi 2 đại đội quân chủ lực, đảm bảo cung cấp đầy đủ lương thực và quần áo, chăm sóc thương binh, lập các điểm khâu vá quần áo cho bộ đội, vận động phụ nữ chưa có gia đình lấy chồng thương binh để chăm sóc các anh suốt đời...
Ở hậu phương, đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã tập trung mọi nguồn nhân lực, vật lực, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của quân và dân cùng cả nước phục vụ chiến dịch Điện Biên Biên Phủ. Quân và dân trong tỉnh đã cung cấp 6.486.955 kg gạo, 52.770 kg thịt trâu, 41.675 kg thịt lợn, 10.890 kg lạc, 11.282 kg đỗ xanh và hàng trăm tấn rau xanh các loại phục vụ chiến dịch.
Quân Pháp liên tục cho máy bay ném bom bắn phá các tuyến đường giao thông chiến lược qua Tuyên Quang đi chiến trường Tây Bắc để ngăn chặn việc tiếp tế cho Điện Biên Phủ. Nhưng dân công và công nhân cầu phà Tuyên Quang vẫn ngày đêm bám cầu, bám phà, sửa đường, kiên quyết bảo đảm giao thông thông suốt. Công nhân các bến phà Hiên, bến phà Bình Ca đã cải tiến kỹ thuật trục phà, rút ngắn thời gian mỗi chuyến phà từ 40 phút xuống còn 8 phút, nâng số xe vận chuyển qua phà từ 20 xe lên 64 xe trong đêm. Trong suốt thời gian phục vụ chiến dịch (từ tháng 10/1953 đến tháng 5/1954), các bến phà Tuyên Quang đã đảm bảo cho 4.734 xe vận tải từ Thái Nguyên qua Tuyên Quang lên chiến trường Tây Bắc.
Với những đóng góp trên, Tuyên Quang đã làm tròn nhiệm vụ của một tỉnh hậu phương đối với tiền tuyến lớn Điện Biên Phủ. Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh được Chính phủ tặng cờ thi đua và Huân chương chiến công hạng Ba, 2 huyện được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai, 11 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Ngoài ra còn có 106 người được Hội đồng cung cấp tiền phương tặng Bằng khen.
BBT tổng hợp