Theo báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (IPCC)về các hiện tượng thời tiết cực đoan nhấn mạnh sự nóng lên toàn cầu rất có thể làm tăng số ngày và đêm lạnh đồng thời cũng làm giảm số ngày và đêm ấm trên toàn cầu. Nhiều bộ phận dân cư thế giới đang phải sống bên bờ vực của các thảm họa vì các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng tăng về tần số và cường độ ở nhiều khu vực trên toàn cầu. Chỉ cần sự tăng nhỏ về tần số hoặc cường độ các hiện tượng này vượt ngưỡng hoặc vượt điểm giới hạn của cơ sở hạ tầng cũng có thể gây thiệt hại vô cùng nghiêm trọng cho hệ thống cơ sở hạ tầng hiện hành.
Khi trái đất nóng dần lên
Ấm lên toàn cầu hay hâm nóng toàn cầu là hiện tượng nhiệt độ trung bình của không khí và các đại dương trên Trái Đất tăng lên theo các quan sát trong các thập kỷ gần đây. Trong thế kỉ 20, nhiệt độ trung bình của không khí gần mặt đất đã tăng 0,6 ± 0,2 °C (1,1 ± 0,4 °F). Theo báo cáo của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA), nhiệt độ trung bình của Trái đất ở cuối thế kỉ 19 đã tăng +0,8 °C và thế kỉ 20 tăng 0,6 ± 0,2 °C. Các dự án mô hình khí hậu của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) chỉ ra rằng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ có thể tăng 1,1 đến 6,4 °C trong suốt thế kỷ 21. Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) nghiên cứu sự gia tăng nồng độ khí nhà kính sinh ra từ các hoạt động của con người như đốt nhiên liệu hóa thạch và phá rừng làm cho nhiệt độ Trái Đất tăng lên kể từ giữa thế kỷ 20. IPCC cũng nghiên cứu sự biến đổi các hiện tượng tự nhiên như bức xạ mặt trời và núi lửa gây ra phần lớn hiện tượng ấm lên từ giai đoạn tiền công nghiệp đến năm 1950 và có sự ảnh hưởng lạnh đi sau đó. Các kết luận cơ bản đã được chứng thực bởi hơn 45 tổ chức khoa học và viện hàn lâm khoa học, bao gồm tất cả các viện hàn lâm của các nước công nghiệp hàng đầu.
Hiện tượng ấm lên được dự đoán sẽ diễn ra mạnh nhất ở Bắc Cực.
Các dự án thiết lập mô hình khí hậu được tóm tắt trong báo cáo gần đây nhất của IPCC chỉ ra rằng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ có thể tăng 1,1 đến 6,4 °C (2,0 đến 11,5 °F) trong suốt thế kỷ 21. Các yếu tố không chắc chắn trong tính toán này tăng lên khi khi các mô hình sử dụng nồng độ các khí nhà kính có độ chính xác khác nhau và sử dụng các thông số ước tính khác nhau về lượng phát thải khí nhà kính tương lai. Các yếu tố không chắc chắn khác bao gồm sự ấm dần lên và các biến đổi liên quan sẽ khác nhau giữa các khu vực trên toàn thế giới. Hầu hết các nghiên cứu tập trung trong giai đoạn đến năm 2100. Tuy nhiên, sự ấm dần lên sẽ tiếp tục diễn ra sau năm 2100 cả trong trường hợp ngừng phát thải khí nhà kính, đều này là do nhiệt dung riêng của đại dương lớn và carbon dioxide tồn tại lâu trong khí quyển.
Nhiệt độ toàn cầu tăng sẽ làm mực nước biển dâng lên và làm biến đổi lượng giáng thủy, có thể bao gồm cả sự mở rộng của các sa mạc vùng cận nhiệt đới. Hiện tượng ấm lên được dự đoán sẽ diễn ra mạnh nhất ở Bắc Cực.
Các rủi ro không chỉ kéo dài trong vài thập kỷ tới mà còn nhiều năm nữa. Như vậy, thế hệ tương lai sẽ hứng chịu hậu quả nghiêm trọng nhất từ biến đổi khí hậu. Trong vòng 25 tới 30 năm tới, các nhà khoa học nói khí hậu vẫn duy trì như hiện nay, dù trái đất dần nóng lên.
Lượng mưa sẽ lớn hơn ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng trong các giai đoạn chuyển tiếp, khí hậu sẽ nóng và khô hơn. Số lượng các cơn bão và siêu bão có thể giảm, nhưng chúng sẽ hút năng lượng từ bề mặt đại dương – nơi có nền nhiệt nóng hơn. Do đó, cường độ các cơn bão sẽ mạnh hơn so với quá khứ. Lũ lụt ở các vùng ven biển sẽ diễn ra thường xuyên hơn và gây thiệt hại.
Về lâu dài, nếu lượng khí thải tiếp tục tăng và không được kiểm soát, các rủi ro sẽ càng nghiêm trọng. Giới khoa học lo ngại, tác động từ khí hậu sẽ trở thành nhân tố gây bất ổn ở các nước, tạo ra làn sóng người tị nạn hay cuộc đại tuyệt chủng lần thứ 6 của thực vật và động vật, làm tan băng ở hai cực khiến mực nước biển tăng cao đủ để khiến các thành phố ven biển chìm trong nước.
Tất cả những mối nguy này có thể xảy ra trong hàng trăm thậm chí hàng nghìn năm nữa. Điều đó có nghĩa chúng ta đang có thêm thời gian điều chỉnh tình hình. Tuy nhiên, các chuyên gia không thể loại trừ những thay đổi bất ngờ như sự sụp đổ của ngành nông nghiệp – khiến xã hội rơi vào tình trạng hỗn loạn sớm hơn.
Các nỗ lực mạnh mẽ của con người nhằm giảm lượng khí thải có thể giảm các rủi ro này hay ít nhất làm chậm hiệu ứng. Tuy nhiên, đã quá muộn để chúng ta loại bỏ hoàn toàn mọi rủi ro, theo New York Times.
Phải làm gì để hạn chế khi trái đất đang nóng lên
Tình trạng ấm lên toàn cầu dường như là nguyên nhân gây nên tình trạng hỗn loạn ở nhiều khu vực.
Chúng ta có nhiều cách đơn giản để giảm lượng khí thải carbon (nguyên nhân chính làm gia tăng hiệu ứng nhà kính) và phần lớn các cách đó đều giúp bạn tiết kiệm tiền. Bạn có thể tạo một lỗ thông trên mái nhà để tiết kiệm điện, cài đặt một thiết bị nhiệt thông minh, dùng các loại bóng đèn có công suất thấp, tắt đèn khi không sử dụng, di chuyển bằng các phương tiện công cộng thay vì xe hơi, giảm chất thải từ thực phẩm và ăn ít thịt.
Có lẽ việc lớn nhất mà mỗi cá nhân có thể làm là hạn chế di chuyển bay. Chỉ cần một hoặc hai chuyến bay được cắt giảm mỗi năm có thể giảm lượng khí thải so với tất cả các phương tiện khác cộng lại. Ngoài ra, bạn cũng có thể tham gia các dự án bảo vệ rừng hay giảm phát thải khí nhà kính…
Các công nghệ phát thải thấp, như xe điện đang được cải tiến để đưa vào sử dụng phổ biến. Các tập đoàn hàng đầu thế giới đưa ra những lời hứa táo bạo để dần chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo và ngăn chặn nạn phá rừng. Trên thế giới, nhiều khu vực và thành phố cam kết thực hiện vượt mức các mục tiêu do chính phủ đặt ra.
Các nhà khoa học cho rằng một số kịch bản tốt nhất mà họ có thể tưởng tượng được là: trái đất ít nhạy cảm với khí nhà kính; thực vật và động vật có thể thích ứng với các thay đổi không không thể tránh khỏi; con người có thể kiểm soát lượng phát thải trong tầm kiểm soát; những đột phá lớn về công nghệ có thể giúp con người hạn chế lượng phát thải và thích nghi với biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, thật không may, các nhà khoa học cho rằng khả năng các kịch bản này xảy ra là không cao. Trái đất sẽ dễ chịu tác động của khí nhà kính. Tình trạng ấm lên toàn cầu dường như là nguyên nhân gây nên tình trạng hỗn loạn ở nhiều khu vực.
Theo quan điểm của các chuyên gia, trông cậy vào một kịch bản lạc quan mà không có kế hoạch thực tế là điều nguy hiểm. Cách duy nhất để hạn chế rủi ro là giảm lượng phát thải.
Khi nhiều công ty, chính phủ và các nhà nghiên cứu đang tập trung tìm hiểu về vấn đề biến đổi khí hậu, các tiến bộ công nghệ đang dần được cải thiện. Tuy nhiên, ngay cả những chuyên gia lạc quan về các giải pháp công nghệ cũng cảnh báo những nỗ lực hiện nay của thế giới là chưa đủ. Chi tiêu cho nghiên cứu nông nghiệp đang bị gián đoạn, dù tình trạng biến đổi khí hậu khiến những rủi ro về lương thực ngày càng tăng. Trong khi đó, cựu chủ tịch tập đoàn Microsoft Bill Gates nói rằng, kỳ vọng về điều kỳ diệu trong công nghệ không phải là phương thức chiến lược để giải quyết biến đổi khí hậu.
Mực nước biển sẽ tăng tới mức nào?
Mực nước ở đại dương đang tăng khoảng 0,3 m mỗi thập kỷ. Điều này gây tác động nghiêm trọng tới các đường bờ biển, buộc các nước và nhiều tổ chức chi hàng chục tỷ USD để chống xói mòn. Tuy nhiên, khi tỷ lệ này tiếp tục tăng, nó sẽ khiến tình hình khó kiểm soát, theo nhận định của các chuyên gia.
Nếu sự phát thải vẫn không được kiểm soát, nhiệt độ bề mặt trái đất có thể sớm giống như kỷ nguyên Pliocen, khi băng tan và mực nước ở đại dương sẽ tăng cao hơn so với mức hiện nay khoảng 24 m.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy việc đốt cháy tất cả nhiên liệu hóa thạch trong lòng đất sẽ khiến băng ở Bắc Cực tan hoàn toàn và đẩy nước biển đạt gần 49 m vào một thời điểm không xác định. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây không phải là mực nước đại dương sẽ tăng bao nhiêu mà nó tốc độ của nó sẽ như thế nào.
Thông tin từ các nghiên cứu về lịch sử trái đất cho thấy, mực nước ở đại dương có thể tăng khoảng 0,3 m mỗi thập kỷ. Đây được coi là trường hợp xấu nhất. Ngay cả khi tỷ lệ chỉ là một nửa cũng khiến xã hội loài người rơi vào khủng hoảng. Thậm chí khi mức độ tăng chậm hơn, nhiều thành phố trên thế giới vẫn sẽ bị lũ cuốn trôi.
Nghiên cứu cho thấy việc cắt giảm số lượng lớn khí thải có thể làm chậm tiến trình này. Con người sẽ có thời gian thích ứng với đường bờ biển bị thay đổi.
Vai trò của công tác dự báo
Trái đất nhạy cảm với khí nhà kính là kết luận được đưa ra với nhiều bằng chứng khoa học. Ví dụ, theo vật lý cơ bản, sự gia tăng khối lượng đá carbon dioxide (CO2) sản sinh nhiều nhiệt. Điều này được phát hiện vào thế kỷ 19. Ngay cả khi máy tính không đưa ra dự báo, rất nhiều bằng chứng cho thấy các nhà khoa học có thể lý giải về vấn đề này.
Theo các nghiên cứu khí hậu, lượng CO2 trong không khí dao động tự nhiên và mỗi khi lượng khí này tăng lên, trái đất cũng nóng dần, băng tan chảy và mực nước ở các đại dương cũng tăng cao. Trong khi đó, máy tính chỉ có thể đưa ra các dự đoán về khí hậu trong tương lai, nhưng không thể chính xác tuyệt đối.
Thời tiết cực đoan liên quan tới biến đổi khí hậu?
Giới khoa học đã công bố bằng chứng cho thấy khí hậu ấm lên đang tạo ra các sóng nhiệt thường xuyên và dữ dội hơn. Nó cũng khiến các cơn bão nghiêm trọng hơn, lũ lụt tại các vùng ven biển đang ngày càng tồi tệ khi mức nước ở các đại dương tăng cao do lượng khí phát thải của con người. Tình trạng nóng lên của toàn cầu khiến hạn hán tại Trung Đông và California (Mỹ) nghiêm trọng hơn.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, mối liên hệ giữa tình trạng ấm lên của trái đất và các hiện tượng tự nhiên là không chắc chắn hoặc gây tranh cãi. Điều này một phần do thiếu các dữ liệu lịch sử.
Một yếu tố khác là nhận thức của con người về biến đổi khí hậu đang thay đổi nhanh chóng nhờ Internet. Công cụ này giúp chúng ta ý thức hơn về các thảm họa thời tiết ở những khu vực xa xôi. Trên các phương tiện truyền thông xã hội, mọi người thường cho rằng, mọi thảm họa tự nhiên đều liên quan tới biến đổi khí hậu. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, chúng ta không có bằng chứng khoa học để chứng minh.
Giới khoa học từng cảnh báo từ những năm 1980 rằng các chính sách nghiêm ngặt về môi trường là cần thiết nhằm hạn chế lượng phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, cảnh báo này không được lưu tâm và lượng khí nhà kính trong khí quyển đã lớn tới mức "nguy hiểm tiềm tàng".
Đây là vấn đề nhân loại đã nhận thấy và tìm hướng giải quyết cách đây vài chục năm. Nhưng đến nay những biện pháp mà nhân loại đưa ra để giải quyết vấn đề nói trên vẫn chưa đem lại kết quả, mặc dầu có hẳn một nghị định thư được thông qua với sự tham gia của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có những nước đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho khí hậu toàn cầu nóng lên. Một khi mà các nước lớn do những quyền lợi về kinh tế của mình mà không thực hiện theo đúng những gì mà Nghị định thư Kyoto đã đề ra là cắt giảm phần lớn lượng khí gây hiệu ứng nhà kính, thì các nước đang phát triển- những nước đang và sẽ đóng góp vào quá trình làm nóng lên của khí hậu toàn cầu vì những yêu cầu phát triển cũng như phải đuổi kịp sự phát triển chung thế giới (phát triển ở đây gần như là phát triển không bền vững) mà gần như phớt lờ đi những gì mà nhân loại cho rằng vấn đề cấp bách. Như vậy, nếu ngay từ bây giờ con người không có những giải pháp và nhưng kế hoạch mang tính thực tế và nghiêm khắc hơn thì vấn đề được nêu ra ở trên khó mà giải quyết được.
Việt Lâm (t/h)
Theo báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (IPCC)về các hiện tượng thời tiết cực đoan nhấn mạnh sự nóng lên toàn cầu rất có thể làm tăng số ngày và đêm lạnh đồng thời cũng làm giảm số ngày và đêm ấm trên toàn cầu. Nhiều bộ phận dân cư thế giới đang phải sống bên bờ vực của các thảm họa vì các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng tăng về tần số và cường độ ở nhiều khu vực trên toàn cầu. Chỉ cần sự tăng nhỏ về tần số hoặc cường độ các hiện tượng này vượt ngưỡng hoặc vượt điểm giới hạn của cơ sở hạ tầng cũng có thể gây thiệt hại vô cùng nghiêm trọng cho hệ thống cơ sở hạ tầng hiện hành.Khi trái đất nóng dần lên
Ấm lên toàn cầu hay hâm nóng toàn cầu là hiện tượng nhiệt độ trung bình của không khí và các đại dương trên Trái Đất tăng lên theo các quan sát trong các thập kỷ gần đây. Trong thế kỉ 20, nhiệt độ trung bình của không khí gần mặt đất đã tăng 0,6 ± 0,2 °C (1,1 ± 0,4 °F). Theo báo cáo của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA), nhiệt độ trung bình của Trái đất ở cuối thế kỉ 19 đã tăng +0,8 °C và thế kỉ 20 tăng 0,6 ± 0,2 °C. Các dự án mô hình khí hậu của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) chỉ ra rằng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ có thể tăng 1,1 đến 6,4 °C trong suốt thế kỷ 21. Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) nghiên cứu sự gia tăng nồng độ khí nhà kính sinh ra từ các hoạt động của con người như đốt nhiên liệu hóa thạch và phá rừng làm cho nhiệt độ Trái Đất tăng lên kể từ giữa thế kỷ 20. IPCC cũng nghiên cứu sự biến đổi các hiện tượng tự nhiên như bức xạ mặt trời và núi lửa gây ra phần lớn hiện tượng ấm lên từ giai đoạn tiền công nghiệp đến năm 1950 và có sự ảnh hưởng lạnh đi sau đó. Các kết luận cơ bản đã được chứng thực bởi hơn 45 tổ chức khoa học và viện hàn lâm khoa học, bao gồm tất cả các viện hàn lâm của các nước công nghiệp hàng đầu.
Hiện tượng ấm lên được dự đoán sẽ diễn ra mạnh nhất ở Bắc Cực.
Các dự án thiết lập mô hình khí hậu được tóm tắt trong báo cáo gần đây nhất của IPCC chỉ ra rằng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ có thể tăng 1,1 đến 6,4 °C (2,0 đến 11,5 °F) trong suốt thế kỷ 21. Các yếu tố không chắc chắn trong tính toán này tăng lên khi khi các mô hình sử dụng nồng độ các khí nhà kính có độ chính xác khác nhau và sử dụng các thông số ước tính khác nhau về lượng phát thải khí nhà kính tương lai. Các yếu tố không chắc chắn khác bao gồm sự ấm dần lên và các biến đổi liên quan sẽ khác nhau giữa các khu vực trên toàn thế giới. Hầu hết các nghiên cứu tập trung trong giai đoạn đến năm 2100. Tuy nhiên, sự ấm dần lên sẽ tiếp tục diễn ra sau năm 2100 cả trong trường hợp ngừng phát thải khí nhà kính, đều này là do nhiệt dung riêng của đại dương lớn và carbon dioxide tồn tại lâu trong khí quyển.
Nhiệt độ toàn cầu tăng sẽ làm mực nước biển dâng lên và làm biến đổi lượng giáng thủy, có thể bao gồm cả sự mở rộng của các sa mạc vùng cận nhiệt đới. Hiện tượng ấm lên được dự đoán sẽ diễn ra mạnh nhất ở Bắc Cực.
Các rủi ro không chỉ kéo dài trong vài thập kỷ tới mà còn nhiều năm nữa. Như vậy, thế hệ tương lai sẽ hứng chịu hậu quả nghiêm trọng nhất từ biến đổi khí hậu. Trong vòng 25 tới 30 năm tới, các nhà khoa học nói khí hậu vẫn duy trì như hiện nay, dù trái đất dần nóng lên.
Lượng mưa sẽ lớn hơn ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng trong các giai đoạn chuyển tiếp, khí hậu sẽ nóng và khô hơn. Số lượng các cơn bão và siêu bão có thể giảm, nhưng chúng sẽ hút năng lượng từ bề mặt đại dương – nơi có nền nhiệt nóng hơn. Do đó, cường độ các cơn bão sẽ mạnh hơn so với quá khứ. Lũ lụt ở các vùng ven biển sẽ diễn ra thường xuyên hơn và gây thiệt hại.
Về lâu dài, nếu lượng khí thải tiếp tục tăng và không được kiểm soát, các rủi ro sẽ càng nghiêm trọng. Giới khoa học lo ngại, tác động từ khí hậu sẽ trở thành nhân tố gây bất ổn ở các nước, tạo ra làn sóng người tị nạn hay cuộc đại tuyệt chủng lần thứ 6 của thực vật và động vật, làm tan băng ở hai cực khiến mực nước biển tăng cao đủ để khiến các thành phố ven biển chìm trong nước.
Tất cả những mối nguy này có thể xảy ra trong hàng trăm thậm chí hàng nghìn năm nữa. Điều đó có nghĩa chúng ta đang có thêm thời gian điều chỉnh tình hình. Tuy nhiên, các chuyên gia không thể loại trừ những thay đổi bất ngờ như sự sụp đổ của ngành nông nghiệp – khiến xã hội rơi vào tình trạng hỗn loạn sớm hơn.
Các nỗ lực mạnh mẽ của con người nhằm giảm lượng khí thải có thể giảm các rủi ro này hay ít nhất làm chậm hiệu ứng. Tuy nhiên, đã quá muộn để chúng ta loại bỏ hoàn toàn mọi rủi ro, theo New York Times.
Phải làm gì để hạn chế khi trái đất đang nóng lên
Tình trạng ấm lên toàn cầu dường như là nguyên nhân gây nên tình trạng hỗn loạn ở nhiều khu vực.
Chúng ta có nhiều cách đơn giản để giảm lượng khí thải carbon (nguyên nhân chính làm gia tăng hiệu ứng nhà kính) và phần lớn các cách đó đều giúp bạn tiết kiệm tiền. Bạn có thể tạo một lỗ thông trên mái nhà để tiết kiệm điện, cài đặt một thiết bị nhiệt thông minh, dùng các loại bóng đèn có công suất thấp, tắt đèn khi không sử dụng, di chuyển bằng các phương tiện công cộng thay vì xe hơi, giảm chất thải từ thực phẩm và ăn ít thịt.
Có lẽ việc lớn nhất mà mỗi cá nhân có thể làm là hạn chế di chuyển bay. Chỉ cần một hoặc hai chuyến bay được cắt giảm mỗi năm có thể giảm lượng khí thải so với tất cả các phương tiện khác cộng lại. Ngoài ra, bạn cũng có thể tham gia các dự án bảo vệ rừng hay giảm phát thải khí nhà kính…
Các công nghệ phát thải thấp, như xe điện đang được cải tiến để đưa vào sử dụng phổ biến. Các tập đoàn hàng đầu thế giới đưa ra những lời hứa táo bạo để dần chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo và ngăn chặn nạn phá rừng. Trên thế giới, nhiều khu vực và thành phố cam kết thực hiện vượt mức các mục tiêu do chính phủ đặt ra.
Các nhà khoa học cho rằng một số kịch bản tốt nhất mà họ có thể tưởng tượng được là: trái đất ít nhạy cảm với khí nhà kính; thực vật và động vật có thể thích ứng với các thay đổi không không thể tránh khỏi; con người có thể kiểm soát lượng phát thải trong tầm kiểm soát; những đột phá lớn về công nghệ có thể giúp con người hạn chế lượng phát thải và thích nghi với biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, thật không may, các nhà khoa học cho rằng khả năng các kịch bản này xảy ra là không cao. Trái đất sẽ dễ chịu tác động của khí nhà kính. Tình trạng ấm lên toàn cầu dường như là nguyên nhân gây nên tình trạng hỗn loạn ở nhiều khu vực.
Theo quan điểm của các chuyên gia, trông cậy vào một kịch bản lạc quan mà không có kế hoạch thực tế là điều nguy hiểm. Cách duy nhất để hạn chế rủi ro là giảm lượng phát thải.
Khi nhiều công ty, chính phủ và các nhà nghiên cứu đang tập trung tìm hiểu về vấn đề biến đổi khí hậu, các tiến bộ công nghệ đang dần được cải thiện. Tuy nhiên, ngay cả những chuyên gia lạc quan về các giải pháp công nghệ cũng cảnh báo những nỗ lực hiện nay của thế giới là chưa đủ. Chi tiêu cho nghiên cứu nông nghiệp đang bị gián đoạn, dù tình trạng biến đổi khí hậu khiến những rủi ro về lương thực ngày càng tăng. Trong khi đó, cựu chủ tịch tập đoàn Microsoft Bill Gates nói rằng, kỳ vọng về điều kỳ diệu trong công nghệ không phải là phương thức chiến lược để giải quyết biến đổi khí hậu.
Mực nước biển sẽ tăng tới mức nào?
Mực nước ở đại dương đang tăng khoảng 0,3 m mỗi thập kỷ. Điều này gây tác động nghiêm trọng tới các đường bờ biển, buộc các nước và nhiều tổ chức chi hàng chục tỷ USD để chống xói mòn. Tuy nhiên, khi tỷ lệ này tiếp tục tăng, nó sẽ khiến tình hình khó kiểm soát, theo nhận định của các chuyên gia.
Nếu sự phát thải vẫn không được kiểm soát, nhiệt độ bề mặt trái đất có thể sớm giống như kỷ nguyên Pliocen, khi băng tan và mực nước ở đại dương sẽ tăng cao hơn so với mức hiện nay khoảng 24 m.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy việc đốt cháy tất cả nhiên liệu hóa thạch trong lòng đất sẽ khiến băng ở Bắc Cực tan hoàn toàn và đẩy nước biển đạt gần 49 m vào một thời điểm không xác định. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây không phải là mực nước đại dương sẽ tăng bao nhiêu mà nó tốc độ của nó sẽ như thế nào.
Thông tin từ các nghiên cứu về lịch sử trái đất cho thấy, mực nước ở đại dương có thể tăng khoảng 0,3 m mỗi thập kỷ. Đây được coi là trường hợp xấu nhất. Ngay cả khi tỷ lệ chỉ là một nửa cũng khiến xã hội loài người rơi vào khủng hoảng. Thậm chí khi mức độ tăng chậm hơn, nhiều thành phố trên thế giới vẫn sẽ bị lũ cuốn trôi.
Nghiên cứu cho thấy việc cắt giảm số lượng lớn khí thải có thể làm chậm tiến trình này. Con người sẽ có thời gian thích ứng với đường bờ biển bị thay đổi.
Vai trò của công tác dự báo
Trái đất nhạy cảm với khí nhà kính là kết luận được đưa ra với nhiều bằng chứng khoa học. Ví dụ, theo vật lý cơ bản, sự gia tăng khối lượng đá carbon dioxide (CO2) sản sinh nhiều nhiệt. Điều này được phát hiện vào thế kỷ 19. Ngay cả khi máy tính không đưa ra dự báo, rất nhiều bằng chứng cho thấy các nhà khoa học có thể lý giải về vấn đề này.
Theo các nghiên cứu khí hậu, lượng CO2 trong không khí dao động tự nhiên và mỗi khi lượng khí này tăng lên, trái đất cũng nóng dần, băng tan chảy và mực nước ở các đại dương cũng tăng cao. Trong khi đó, máy tính chỉ có thể đưa ra các dự đoán về khí hậu trong tương lai, nhưng không thể chính xác tuyệt đối.
Thời tiết cực đoan liên quan tới biến đổi khí hậu?
Giới khoa học đã công bố bằng chứng cho thấy khí hậu ấm lên đang tạo ra các sóng nhiệt thường xuyên và dữ dội hơn. Nó cũng khiến các cơn bão nghiêm trọng hơn, lũ lụt tại các vùng ven biển đang ngày càng tồi tệ khi mức nước ở các đại dương tăng cao do lượng khí phát thải của con người. Tình trạng nóng lên của toàn cầu khiến hạn hán tại Trung Đông và California (Mỹ) nghiêm trọng hơn.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, mối liên hệ giữa tình trạng ấm lên của trái đất và các hiện tượng tự nhiên là không chắc chắn hoặc gây tranh cãi. Điều này một phần do thiếu các dữ liệu lịch sử.
Một yếu tố khác là nhận thức của con người về biến đổi khí hậu đang thay đổi nhanh chóng nhờ Internet. Công cụ này giúp chúng ta ý thức hơn về các thảm họa thời tiết ở những khu vực xa xôi. Trên các phương tiện truyền thông xã hội, mọi người thường cho rằng, mọi thảm họa tự nhiên đều liên quan tới biến đổi khí hậu. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, chúng ta không có bằng chứng khoa học để chứng minh.
Giới khoa học từng cảnh báo từ những năm 1980 rằng các chính sách nghiêm ngặt về môi trường là cần thiết nhằm hạn chế lượng phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, cảnh báo này không được lưu tâm và lượng khí nhà kính trong khí quyển đã lớn tới mức "nguy hiểm tiềm tàng".
Đây là vấn đề nhân loại đã nhận thấy và tìm hướng giải quyết cách đây vài chục năm. Nhưng đến nay những biện pháp mà nhân loại đưa ra để giải quyết vấn đề nói trên vẫn chưa đem lại kết quả, mặc dầu có hẳn một nghị định thư được thông qua với sự tham gia của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có những nước đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho khí hậu toàn cầu nóng lên. Một khi mà các nước lớn do những quyền lợi về kinh tế của mình mà không thực hiện theo đúng những gì mà Nghị định thư Kyoto đã đề ra là cắt giảm phần lớn lượng khí gây hiệu ứng nhà kính, thì các nước đang phát triển- những nước đang và sẽ đóng góp vào quá trình làm nóng lên của khí hậu toàn cầu vì những yêu cầu phát triển cũng như phải đuổi kịp sự phát triển chung thế giới (phát triển ở đây gần như là phát triển không bền vững) mà gần như phớt lờ đi những gì mà nhân loại cho rằng vấn đề cấp bách. Như vậy, nếu ngay từ bây giờ con người không có những giải pháp và nhưng kế hoạch mang tính thực tế và nghiêm khắc hơn thì vấn đề được nêu ra ở trên khó mà giải quyết được.
Việt Lâm (t/h)